Lạc Thư - Ngũ Kinh
Lạc Thư:
Lạc Thư:
Bát Quái, Lạc Thư, và Hà Đồ là ba họa đồ được truyền lại từ thời xa xưa, có nguồn gốc từ các bộ tộc phía nam sông Dương Tử cổ đại. Mỗi họa đồ được truyền tụng, phát triển, và sử dụng với nhiều mục đích khác nhau. Bát quái gồm có: Bát quái tiên thiên và Bát quái hậu thiên. Hà Đồ và Lạc Thư thường được nhắc chung mặc dù lạc thư được sử dụng nhiều hơn do tính cách dễ hiểu.
Cửu Cung Bát Quái Hà Đồ Lạc Thư |
Hà đồ Lạc Thư:
Theo truyền thuyết xưa của Trung Quốc, trên sông Hoàng Hà đã từng xuất hiện con long mã trên mình có đồ (Đường vẽ ngoằn nghoèo) gọi là Hà đồ và trên sông Lạc Thủy xuất hiện con thần quy, trên lưng có thư gọi là Lạc thư. Do đó mà người ta đặt ra bát quái và cửu chương.
Ngũ Kinh
Ngũ Kinh còn là cách gọi khác của Ngũ Thư
Ngũ Kinh (五經 Wǔjīng) là năm quyển kinh điển trong văn học Trung Hoa dùng làm nền tảng trong Nho giáo. Theo truyền thuyết, năm quyển này đều được Khổng Tử soạn thảo hay hiệu đính. Sách kinh điển gồm hai bộ: Ngũ Kinh và Tứ Thư. Năm quyển Ngũ Kinh gồm có:
Kinh Thi (詩經 Shī Jīng): sưu tập các bài thơ dân gian có từ trước Khổng Tử, nói nhiều về tình yêu nam nữ. Khổng Tử san định thành 300 thiên nhằm giáo dục mọi người tình cảm trong sáng lành mạnh và cách thức diễn đạt rõ ràng và trong sáng. Một lần, Khổng Tử hỏi con trai "học Kinh Thi chưa?", người con trả lời "chưa". Khổng Tử nói "Không học Kinh Thi thì không biết nói năng ra sao" (sách Luận ngữ).
Kinh Thư (書經 Shū Jīng): ghi lại các truyền thuyết, biến cố về các đời vua cổ có trước Khổng Tử. Khổng Tử san định lại để các ông vua đời sau nên theo gương các minh quân như Nghiêu, Thuấn chứ đừng tàn bạo như Kiệt, Trụ.
Kinh Lễ (禮記 Lǐ Jì): ghi chép các lễ nghi thời trước. Khổng Tử hiệu đính lại mong dùng làm phương tiện để duy trì và ổn định trật tự. Khổng Tử nói: "Không học Kinh Lễ thì không biết đi đứng ở đời" (sách Luận Ngữ).
Kinh Dịch (易經 Yì Jīng): nói về các tư tưởng triết học của người Trung Hoa cổ đại dựa trên các khái niệm âm dương, bát quái,... Đời Chu, Chu Văn Vương đặt tên và giải thích các quẻ của bát quái gọi là Thoán từ. Chu Công Đán giải thích chi tiết nghĩa của từng hào trong mỗi quẻ gọi là Hào từ. Kinh Dịch thời Chu gọi là Chu Dịch. Khổng Tử giảng giải rộng thêm Thoán từ và Hào từ cho dễ hiểu hơn và gọi là Thoán truyện và Hào truyện.
Kinh Xuân Thu (春秋 Chūn Qiū): ghi lại các biến cố xảy ra ở nước Lỗ, quê của Khổng Tử. Khổng Tử không chỉ ghi chép như một sử gia mà theo đuổi mục đích trị nước nên ông chọn lọc các sự kiện, ghi kèm các lời bình, sáng tác thêm lời thoại để giáo dục các bậc vua chúa. Ông nói: "Thiên hạ biết đến ta bởi kinh Xuân Thu, thiên hạ trách ta cũng sẽ ở kinh Xuân Thu này". Đây là cuốn kinh Khổng Tử tâm đắc nhất, xuân thu có nghĩa là mùa xuân và mùa thu, ý nói những sự việc xảy ra.
Ngoài ra còn có Kinh Nhạc do Khổng Tử hiệu đính nhưng về sau bị Tần Thủy Hoàng đốt mất, chỉ còn lại một ít làm thành một thiên trong Kinh Lễ gọi là Nhạc ký. Như vậy Lục kinh chỉ còn có Ngũ kinh
Một trong những dữ kiện để tự xem Kinh Dịch là thời gian tháng xem, nếu tháng xem không đúng thì cho kết quả dự báo sai. Do vậy việc xác định giới hạn thời gian xem theo tháng là điều tối quan trọng.
Khi tự xem Kinh Dịch, cần xác định việc cần xem bắt đầu khởi lên vào tháng nào trong lịch Tiết khí. Đây là điều nhiều người thường lầm lẫn với lịch nhà nông, tức lịch âm bằng số. Trong lịch Âm nhà nông bằng số có 12 tháng, mỗi tháng khoảng 30 ngày, khởi đầu của tháng là ngày mồng 1, tiếp mồng 2, mồng 3, mồng 4...đến rằm (15) rồi ngày cuối tháng 29 hoặc 30. Trong lịch Can Chi hay lịch Tiết khí không phải như vậy, không phải bất cứ ngày mồng 1 của một tháng là ngày đầu tiên của tháng đó, mà ngày đó có thể thuộc tháng trước đó. Như ngày mồng 1 tháng Giêng chưa hẳn là ngày của tháng Giêng mà có thể vẫn là ngày của tháng Chạp năm trước nếu ngày Lập xuân rơi vào tháng Chạp. Ngược lại, ngày của tháng Chạp năm trước, lại là ngày đầu của tháng Giêng năm mới. Như năm nay Quý Tỵ 2013, ngày 24 Tân Sửu Tháng Chạp năm Nhâm Thìn (Thứ Hai ngày 4/2/2013) là ngày Lập Xuân, thì ngày 24 tháng Chạp Nhâm Thìn đã là ngày đầu của tháng Giêng Tiết khí năm Quý Tỵ. Nói cách khác, năm Quý Tỵ không có Lập xuân.
Cũng như vậy, ngày 24/ Canh Ngọ tháng Giêng là ngày tiết Kinh trập (Thứ Ba ngày 5/3/2013), nên đã là ngày đầu của tháng Hai âm Tiết khí của năm Quý Tỵ, chứ không phải là ngày mồng 1/Đinh Sửu tháng Hai âm (Thứ Ba/12/3/2013).
Chúng ta cần biết, tháng của lịch Can Chi được dựng theo tiết khí, nghĩa là ngày bắt đầu của tháng căn cứ vào ngày chuyển tiết sang tháng đó. Như tháng Giêng bắt đầu từ ngày Lập xuân, nghĩa là ngày 1 tháng Giêng (tết Nguyên đán) chưa hẳn đã là ngày của tháng Giêng. Ngày của tháng Giêng bắt đầu từ ngày Lập xuân. Lập xuân có thể đến sớm trong tháng Chạp, ví dụ Lập xuân rơi vào ngày 26 tháng Chạp, thì từ ngày này trở đi như ngày 27,28,29...tháng Chạp đã là ngày của tháng Giêng. Khi dự báo, nếu người sinh vào ngày 28 tháng Chạp, coi như là đã sinh vào tháng Giêng của năm sau, mặc dù chưa đến tết Nguyên đán. Để xác định vị trí tháng và ngày của từng tháng trong năm, người xưa đã đưa ra cách xác định như sau:
Ví dụ: ngày 4/10 âm năm Bính Tuất (2006 ngày 24. Thứ sáu/11): lịch ghi Lập đông vào ngày 17/10 âm, như vậy ngày 4/10 này cho đến ngày 16/10 âm vẫn là ngày của tháng chín âm. Khi dự báo bằng Kinh Dịch..., người ta rất chú ý đến cách tính thời gian này.
Việc nắm vững giới hạn một ngày của một tháng Tiết khí rất quan trọng trong tự xem Kinh Dịch, vì nếu sai thì kết quả tính toán qua các số thời gian để lập quẻ hay mô hình dự báo sẽ sai, kết quả xem đương nhiên là sai.
Nguồn: Quang Tuệ
Xác định giới hạn của tháng tiết khí lịch âm
Một trong những dữ kiện để tự xem Kinh Dịch là thời gian tháng xem, nếu tháng xem không đúng thì cho kết quả dự báo sai. Do vậy việc xác định giới hạn thời gian xem theo tháng là điều tối quan trọng.
Khi tự xem Kinh Dịch, cần xác định việc cần xem bắt đầu khởi lên vào tháng nào trong lịch Tiết khí. Đây là điều nhiều người thường lầm lẫn với lịch nhà nông, tức lịch âm bằng số. Trong lịch Âm nhà nông bằng số có 12 tháng, mỗi tháng khoảng 30 ngày, khởi đầu của tháng là ngày mồng 1, tiếp mồng 2, mồng 3, mồng 4...đến rằm (15) rồi ngày cuối tháng 29 hoặc 30. Trong lịch Can Chi hay lịch Tiết khí không phải như vậy, không phải bất cứ ngày mồng 1 của một tháng là ngày đầu tiên của tháng đó, mà ngày đó có thể thuộc tháng trước đó. Như ngày mồng 1 tháng Giêng chưa hẳn là ngày của tháng Giêng mà có thể vẫn là ngày của tháng Chạp năm trước nếu ngày Lập xuân rơi vào tháng Chạp. Ngược lại, ngày của tháng Chạp năm trước, lại là ngày đầu của tháng Giêng năm mới. Như năm nay Quý Tỵ 2013, ngày 24 Tân Sửu Tháng Chạp năm Nhâm Thìn (Thứ Hai ngày 4/2/2013) là ngày Lập Xuân, thì ngày 24 tháng Chạp Nhâm Thìn đã là ngày đầu của tháng Giêng Tiết khí năm Quý Tỵ. Nói cách khác, năm Quý Tỵ không có Lập xuân.
Mô hình giải thích thời gian dài ngắn của tiết khí |
Cũng như vậy, ngày 24/ Canh Ngọ tháng Giêng là ngày tiết Kinh trập (Thứ Ba ngày 5/3/2013), nên đã là ngày đầu của tháng Hai âm Tiết khí của năm Quý Tỵ, chứ không phải là ngày mồng 1/Đinh Sửu tháng Hai âm (Thứ Ba/12/3/2013).
Chúng ta cần biết, tháng của lịch Can Chi được dựng theo tiết khí, nghĩa là ngày bắt đầu của tháng căn cứ vào ngày chuyển tiết sang tháng đó. Như tháng Giêng bắt đầu từ ngày Lập xuân, nghĩa là ngày 1 tháng Giêng (tết Nguyên đán) chưa hẳn đã là ngày của tháng Giêng. Ngày của tháng Giêng bắt đầu từ ngày Lập xuân. Lập xuân có thể đến sớm trong tháng Chạp, ví dụ Lập xuân rơi vào ngày 26 tháng Chạp, thì từ ngày này trở đi như ngày 27,28,29...tháng Chạp đã là ngày của tháng Giêng. Khi dự báo, nếu người sinh vào ngày 28 tháng Chạp, coi như là đã sinh vào tháng Giêng của năm sau, mặc dù chưa đến tết Nguyên đán. Để xác định vị trí tháng và ngày của từng tháng trong năm, người xưa đã đưa ra cách xác định như sau:
THÁNG
|
GIỚI HẠN THÁNG VÀ NGÀY CỦA
THÁNG
|
Giêng
|
Kể từ ngày Lập xuân đến giáp
ngày Kinh Trập
|
Hai
|
Kể từ ngày Kinh trập đến giáp
ngày Thanh minh
|
Ba
|
Kể từ ngày Thanh minh đến
giáp ngày Lập hạ
|
Tư
|
Kể từ ngày Lập hạ đến giáp
ngày Mang chủng
|
Năm
|
Kể từ ngày Mang chủng đến
giáp ngày Tiểu thử
|
Sáu
|
Kể từ ngày Tiểu thử đến giáp
ngày Lập thu
|
Bảy
|
Kể từ ngày Lập thu đến giáp
ngày Bạch lộ
|
Tám
|
Kể từ ngày Bạch lộ đến giáp
ngày Hàn lộ
|
Chín
|
Kể từ ngày Hàn lộ đến giáp
ngày Lập đông
|
Mười
|
Kể từ ngày Lập đông đến giáp
ngày Đại tuyết
|
Một
|
Kể từ ngày Đại tuyết đến giáp
ngày Tiểu hàn
|
Chạp
|
Kể từ ngày Tiểu hàn đến giáp
ngày Lập xuân
|
Ví dụ: ngày 4/10 âm năm Bính Tuất (2006 ngày 24. Thứ sáu/11): lịch ghi Lập đông vào ngày 17/10 âm, như vậy ngày 4/10 này cho đến ngày 16/10 âm vẫn là ngày của tháng chín âm. Khi dự báo bằng Kinh Dịch..., người ta rất chú ý đến cách tính thời gian này.
Việc nắm vững giới hạn một ngày của một tháng Tiết khí rất quan trọng trong tự xem Kinh Dịch, vì nếu sai thì kết quả tính toán qua các số thời gian để lập quẻ hay mô hình dự báo sẽ sai, kết quả xem đương nhiên là sai.
Nguồn: Quang Tuệ