Thứ Tư, 4 tháng 9, 2013

THUẦN ĐOÀI - quẻ 58

Quẻ Thuần Đoài, đồ hình ||:||: còn gọi là quẻ Đoài (兌 dui4), là quẻ thứ 58 trong Kinh Dịch.
  • Nội quái là ☱ (||: 兌 dui4) Đoài hay Đầm (澤).
  • Ngoại quái là ☱ (||: 兌 dui4) Đoài hay Đầm (澤).
Giải nghĩa quẻ THUẦN ĐOÀI: Duyệt dã. Hiện đẹp. Đẹp đẽ, ưa thích, vui hiện trên mặt, không buồn chán, cười nói, khuyết mẻ. Hỉ dật mi tu chi tượng: tượng vui hiện trên mặt, khẩu khí.


GIẢI NGHĨA BỨC TRANH CỔ THUẦN ĐOÀI


Ý Nghĩa Bức Tranh

1.Một người để gánh xuống, ngồi trên đòn gánh, ý nói được nghĩ một lúc, tạm lơi trách nhiệm.
2.Trăng tròn trên trời là điềm gặp lại nhau
3.Người đàn bà đứng bên cái hộp tròn, ý nói bây giờ là thời gian lý tưởng để cử hành hôn lễ.
4.Một mũi tên đặt trên chồng sách, ý nói đến một người đứng đầu danh sách.
5.Một nho sinh bước tới, ý nói có sự thăng tiến bất ngờ trong nghề nghiệp hay địa vị xã hội.

Hình Và Tượng
Hình: Giang hồ dưỡng vật (Sông hồ nuôi dưỡng muôn vật).
Tượng: Thiên giáng vũ trạch (Trời ban cơn mưa thuận).

Thoán Từ
Đoài: Hanh, lợi trinh.
Quẻ Đoài nghĩa là vui lòng, vừa lòng. Hanh thông thuận lợi. Giữ bền lòng thuần chính thì có lợi.

Diễn Giải
Duyệt dã, hòa duyệt. Đoài tượng nước chằm, lại tượng thiếu nữ, nước thường nuôi cây cỏ, sinh vật, thiếu nữ thường làm cho trai phải duyệt nhau tất vui vẻ hanh thông.

Chiêm
1. Đây là quẻ thuộc tháng Mười. Tốt trong mùa Xuân và Thu. Xấu trong mùa Hạ. Có thể bị bệnh trong mùa Đông.
 2. Đoài tượng trưng cho ao đầm.
3. Sau thời gian làm việc chăm chỉ đạt kết quả tốt, bạn thấy rằng cần phải nghỉ ngơi một lúc. Thế là bạn đi nghỉ mát và tận hưởng một thời gian tuyệt vời. Trở về .


GIẢI NGHĨA KHÁC

 Người có cương vị và chính trực, không nên lấy lòng tiểu nhân và càng không nên vì bọn đó làm mình vui sướng mà sủng ái.





Một người buôn gánh hàng ngồi nghỉ trên đường, ý nói là tạm nghỉ trách nhiệm cho thoải mái. Trăng rằm sáng đẹp và người con gái đứng cạnh mũi tên kèm lá thư và hộp trang sức, nghĩa là muốn bắn tin để cầu hôn. Người thanh niên đang đứng cạnh gốc cây đợi chờ câu trả lời. Đoài chính là vui sướng, người thiếu nữ vui vẻ. Niềm vui sẽ làm mọi người hiểu nhau hơn, nhưng nếu không giữ mồm miệng sẽ thành mối bất hòa, vì vạ từ miệng lưỡi. Và phải hiểu điều quan trọng nhất là, khách sáo sẽ không có được tình cảm thật lòng.


Theo Thuyết văn, Đoài là nói vậy. Chữ Đoài tức là vui, nên miệng mở ra. Còn trong giáp cốt văn, hình Đoài là cái miệng há ra vui vẻ. Niềm vui của con người rất nhiều, từ đơn giản đến phức tạp, nhưng vấn đề là cách thức tạo ra niềm vui và tận hưởng niềm vui đó như thế nào. Nhiều người lấy ăn uống, đặc biệt là rượu để tạo niềm vui, nhưng cũng có người chuốc vui bằng rượu để dò tâm ý. Sử chép sau khi thống nhất đất nước, Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương mời Trung Sơn vương Từ Đạt đến uống ruợu và chuốc cho Đạt say mềm, rồi sai nội thị đưa Đạt vào cựu nội (nơi ngủ trước khi Chu Nguyên Chương làm hoàng đế). Đến sáng tỉnh rượu, Đạt hỏi người phục vụ, mới biết đây là cựu nội. Đạt vội vã bước ra ngoài, quay mặt về hướng Bắc vái hai vái, cúi mình ba lần rồi mới ra về. Nguyên Chương nghe báo lại thái độ của Đạt, rất hài lòng, vì như thế là không có biểu hiện cậy thế công thần, quên gốc gác cũ. Quẻ này có triệu lưỡng trạch tương tụ (hai con lạch hợp thành sông). Màu sắc của quẻ Đoài là thuần tím, được coi là biểu tượng của thủy chung, thương nhớ và cũng là sự độ lượng. Vui vẻ là một phần nhân tính, cuộc sống không thể thiếu niềm vui, vì nó tác động rất lớn đến con người, góp phần cho thành công và thúc đẩy khả năng cá nhân lên ngưỡng bất ngờ. Bởi vậy, muốn có được niềm vui, chúng ta cần phải biết:


1. Muốn bản thân được vui vẻ và thấy vui vẻ, thì phải làm bằng được những điều mình mong muốn và thấy say mê, thích thú trong cuộc sống. Đời nhà Đường, có Trần Huy, xuất gia làm hòa thượng từ năm 13 tuổi, chỉ say mê nghiên cứu Phật học. Nhưng, sau thấy kinh Phật mà ông đang co, có nhiều sai sót, nên ông quyết sang Ấn Độ lấy kinh nguyên bản nhà Phật về để sửa chữa. Từ năm 629 xuất phát tìm đường sang đất Phật, trải qua 16 năm, đến năm 645 ông đã đem được 650 bộ kinh Phật về Trường An. Tuy là người thoát tục, nhưng ông vẫn muốn làm việc có ích để phục vụ cho nghiệp tu hành của mình và của đồng đạo được trọn vẹn. Quá trình viễn hành đến đất Phật và trở về thành công của ông, đã được Ngô Thừa Ân chép lại và viết thành bộ tiểu thuyết Tây Du ký nổi tiếng.


2. Nếu mình hòa chung niềm vui với người khác và san sẻ rộng rãi niềm vui, thì niềm vui đó càng được trọn vẹn. Người trên phải biết chia sẻ niềm vui cho người dưới, hoặc chí ít cũng không nên tước đi niềm vui giản đơn của họ. Chuyện của Thuyết Uyển kể rằng, có lần Án Tử chuẩn bị mời vua Tề Cảnh Công uống rượu, nên bảo gia nhân phải bày đồ uống rượu mới. Gia nhân báo lại rằng, hiện không đủ tiền mua, nên đề nghị cho đi trưng thu ở thái ấp. Án Tử không tán thành vì: Thiên tử cùng hưởng vui với thần dân thiên hạ, chư hầu cùng hưởng vui với thần dân trong nước, từ đại phu trở xuống cùng hưởng vui với thuộc hạ của mình, không nên hưởng vui một mình. Nay người ở bên trên hưởng vui thỏa thích, người ở bên dưới lại cảm thấy đau lòng đối với sự vui vẻ lãng phí đó, ấy chính là loại người hưởng lạc một mình. Không thể làm như thế. Trên dưới cùng vui hưởng, được coi là một nghệ thuật lãnh đạo. Nếu người lãnh đạo chỉ lo hưởng thụ một mình mà không quan tâm đến sự lo lắng, thiếu thốn, khổ sở của dân, sẽ bị dân oán hận, sinh ra thù ghét, bạo loạn.


3. Muốn yêu cầu người khác làm cho mình vui vẻ, thì cũng phải biết mức độ yêu cầu phù hợp với bản thân và hiểu được niềm vui ấy như thế nào. Chuyện Hà Thành cũ chép rằng, thời Pháp thuộc có cô chủ thầu Tư Hồng, nhờ thân mật với người Tây nên chạy chọt trúng thầu vụ phá thành Hà Nội. Sau đó lại đầu cơ buôn gạo vào miền Trung đang đói kém, mất mùa, nên trúng quả đậm, rồi nghe diệu kế liền quay sang phát chẩn ít thóc, thế là được triều đình Huế tặng bảng vàng Lục quyên nghĩa phụ. Tiện thể, Tư Hồng còn cố chạy chọt thêm cho bố đẻ được hàm Ngũ phẩm. Có danh tiếng rồi, Tư Hồng sửa sang nhà cửa, khao linh đình. Bọn tay chân nịnh hót kéo đến chúc tụng và gợi ý, nếu được cụ Tam Nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến đề tặng cho vài chữ thì danh tiếng hơn, sung sướng hơn. Nghĩ sao được vậy, cụ Yên Đổ bằng lòng cho ông bố Tư Hồng đôi câu đối: Một đạo sắc phong hàm cụ lớn - Nghìn năm danh giá của bà to. Câu đối dành cho Tư Hồng là: Có tàn có tán có hương án thờ vua, danh giá lẫy lừng băm sáu tỉnh - Nào biển, nào cờ, nào sắc phong cho cụ, chị em hồ dễ mấy lăm người. Và cuối cùng là ba chữ đại Chi chi dã dán ở cửa. Cụ Yên Đổ giải thích nôm na: Lấy chữ sách như thế mà đề cánh cổng mới sắc sảo. Lớn nhỏ đều có thể ra vào nơi đây, từ quan đến dân. Tất cả trầm trồ, Tư Hồng mừng rơn! Nhưng nhiều người lại lắc đầu thương hại cho kẻ ngu si, hãnh tiến, không hiểu biết gì. Bởi những từ của bà to, tàn tán, chi chi dã đều là những từ mắng giễu mấy ả điếm đứng đường thời ấy.


4. Người có cương vị và chính trực, không nên lấy lòng tiểu nhân và càng không nên vì bọn đó làm mình vui sướng mà sủng ái. Chúng sẽ gieo mầm họa cho cả sự nghiệp cá nhân và đất nước. Cuối thời nhà Minh, Vương Chấn là một viên quan gian tham, luôn nịnh bợ làm vui lòng vua Anh Tông, nên được vua sủng ái. Hắn chuyên quyền khiến cả triều đình phải sợ. Khi giặc Ngõa mưu đồ tiến chiếm Trung Nguyên, Vương không muốn chống giặc mà chỉ muốn tìm cách nịnh hót thủ lĩnh bọn chúng. Năm 1449, quân Ngõa gây chiến, vua Anh Tông đích thân dẫn quân viễn chinh, quân Ngõa bày trận phục binh để nhử. Vương thấy giặc lui, bèn đuổi theo, trúng kế đại bại, Anh Tông phải hồi kinh. Trên đường về, Vương Chấn quyết định ở lại Mộc Bảo, mà không nghe các đại thần khuyên về thành Hoài Lai cố thủ. Thế là quân Ngõa đến vây chặt, tiếp đó đưa thư vờ cầu hòa, Vương Chấn tưởng thật, bèn lệnh cho quân sĩ tranh thủ phá vây về thành Hoài Lai và lại rơi vào phục binh của quân Ngõa. Minh Anh Tông bị quân Ngõa bắt sống, còn Vương Chấn bị giết chết. 50 vạn quân Minh bị phá tan tành chỉ vì nhà vua tin yêu, sủng ái một kẻ tiểu nhân.


5. Thường những người trên cương vị lãnh đạo sẽ có rất nhiều kẻ cơ hội bám quanh lấy lòng, làm đẹp lòng họ và gia đình họ để mưu lợi cá nhân. Nếu người lãnh đạo không tỉnh táo sẽ bị kẻ tiểu nhân thao túng, giật dây vì những lời tán dương mình là vĩ nhân, duy ngã độc tôn. Thời Chiến quốc, có lần vua Tấn Bình Công ngồi uống rượu với quần thần nói rằng: Làm vua chẳng có gì vui vẻ cả, thú vui duy nhất là không có kẻ chống lại ý mình. Người chơi đàn Lạc Sư Khoáng nghe thấy thế bèn ném cây đàn về phía vua, nhà vua giật mình né tránh được, cây đàn đâm vào tường tạo thành lỗ thủng to. Tấn Bình Công giận dữ quát hỏi, Lạc ngửa cổ lên than rằng: Một vị vua vì dân, sao có thể nói ra câu này? Nếu bệ hạ không nghe ý kiến người khác, thì sao biết cách cai quản đất nước cho tốt được? Vua nghe vậy rất xấu hổ, ngăn không cho sửa cái lỗ thủng trên tường, cứ để thế mà thường xuyên trông vào đó mà tự nhắc nhở mình.


6. Mang lại niềm vui cho người khác thì dễ, nhưng đem lại niềm vui cho chính mình khó hơn, vì không phải ai cũng biết tự vui, tự hài lòng với bản thân. Liệt Tử chuyện chép, có một lần Khổng Tử đi chơi núi Thái Sơn, gặp ông Vinh Khải Kỳ đang ngao du ngoài đồng, mặc áo lông cừu, tay gảy đàn, vừa đi vừa hát. Khổng Tử hỏi nguyên do tại sao luôn vui vẻ như vậy, Khải Kỳ mới giải thích: Trời sinh muôn vật, loài người quý nhất, mà ta được làm người, đó là một điều đáng vui; người ta sinh ra có đui què, non yểu, mà ta hoàn toàn khỏe mạnh đến 90 tuổi, thế là ba điều đáng vui. Còn cái nghèo là sự thường của thế gian, cái chết là tất yếu của đời người. Ta nay bình thường đợi lúc chết, thì có gì đáng lo buồn? Khổng Tử khen rằng: Phải lắm! Tiên sinh biết cách tự làm cho khoan khoái mà hưởng sự vui thú ở đời.

GIẢI NGHĨA ĐỒ HÌNH QUẺ THUẦN ĐOÀI

Mô hình dự báo hay quẻ Thuần Đoài

Thuần Đoài


Khi dự báo, gặp mô hình dự báo hay quẻ này cho biết: hãy sẵn sàng vứt bỏ quá khứ, lạc quan, vui vẻ và chấp nhận cuộc sống hiện tại thì tương lai tốt đẹp.

Đồ hình hướng không gian Trái đất Thuần Đoài:


Đồ hình hướng không gian trái đất quẻ Thuần Đoài



a. Nếu chi tiết hóa từng sự việc, cho biết:

Xem thế vận: có điều kiện thuận lợi, bình ổn và vô sự. Được mọi người ủng hộ, cẩn thận trong quan hệ nam nữ.
Xem hy vọng: có thể đạt được, nêu chủ quan, sơ ý sẽ hỏng.
Xem tài lộc: đầy đủ.
Xem sự nghiệp: phát triển thuận lợi.
Xem nhậm chức: được người khác giúp, có chức vị tốt.
Xem nghề nghiệp: chuyển nghề tốt.
Xem tình yêu: được ái mộ
Xem hôn nhân: có thể thành lương duyên
Xem đợi người: họ đến muộn
Xem đi xa: có chuyến đi thú vị
Xem pháp lý: hòa giải thì tốt.
Xem sự việc: phải đứng ra thương lượng trực tiếp.
Xem bệnh tật: đạt kết quả tốt.
Xem thi cử: bệnh nặng.
Xem mất của: khó tìm.
Xem người ra đi: người bỏ đi không rõ tung tích.

b. Nếu dự báo từng hào động, cho biết:

Nếu hào 1 động: cho biết đang có sự hòa thuận vui vẻ. Cũng cho biết chưa có cơ duyên, thời cơ chưa tối. Nên ẩn nhẫn chờ thời, không vội vàng. Lúc ban đầu cùng khốn,nhưng sau an khang.
Xem bệnh: mau lành.
Nếu kinh doanh và làm ăn cho biết:
- Xem tài vận: khá vượng.
- Xem khai trương: đại cát, mọi việc vui vẻ.
- Xem buôn bán và giao dịch: thuận lợi, thu đại lợi.


Nếu hào 2 động: cho biết dù sống cương trực nhưng lại an vui, không bị lôi kéo vào những việc không chính đáng.
Cũng cho biết: có sao tài, mã, quan lộc chiếu, nên không còn phải băn khoăn.
Đến tháng 6 âm, 9 âm, 10 âm và tháng Chạp thì công danh, buôn bán, hôn nhân đều tốt đẹp.
Nếu kinh doanh và làm ăn cho biết:
- Xem tài vận: sẽ nâng cao nếu đối nhân xử thế tốt.
- Xem khai trương: đại cát, mọi việc vui vẻ.
- Xem buôn bán và giao dịch: thu lợi nhuận khi có chữ tín.


Nếu hào 3 động: cho biết đề phòng lôi sống, lối suy nghĩ nông cạn, hời hợt vì dễ đánh mất mình.
Cho biết tay trắng mà nên. Khi đã định ra mục tiêu thì cứ tiến hành, cuối cùng cũng đạt kết quả.
Nếu kinh doanh và làm ăn cho biết:
- Xem tài vận: dễ gặp nguy hiểm khi kinh doanh không chính đáng.
- Xem khai trương: chưa nên khai trương.
- Xem buôn bán và giao dịch: khó đạt lợi nhuận khi mình không nghiêm túc.


Nếu hào 4 động: cho biết đang cận kề với cái xấu, có thể thoát ra mà hướng tới cái tốt.
Cũng cho biết mong người người về. Đến mùa thu có nhiều tin mừng. Mọi việc có thể như ý, tình duyên thuận lợi.
Nếu kinh doanh và làm ăn cho biết:
- Xem tài vận: bình thường.
- Xem khai trương: chưa nên khai trương.
- Xem buôn bán và giao dịch: hãy đề phòng thất thu.


Nếu hào 5 động: cho biết đã cận kề với cái xấu, rất dễ vướng mắc sai lầm, gặp nguy hiểm. Nên tỉnh táo tránh xa.
Cũng cho biết nếu kỳ vọng cao xa cứ bền lòng tiến tới, ắt thành công. Nếu cần công danh, sự nghiệp, thi cử, tình duyên đều mãn nguyện.
Nếu kinh doanh và làm ăn cho biết:
- Xem tài vận: có vượng nhưng đề phòng sa ngã mà suy vi.
- Xem khai trương: chưa nên khai trương.
- Xem buôn bán và giao dịch: có thể thành nhưng đề phòng sau đó bị tổn thất.


Nếu hào 6 động: cho biết đang cận kề với điều xấu, dễ sa ngã vì những ham muốn tầm thường. cần tỉnh táo, cương nghị.
Cũng cho biết hãy an yên chờ thời, càng vẫy vùng càng gặp khó. Mọi việc đều không tốt, bệnh chẳng lành, tài danh không có, người đi biền biệt không về.
Nếu kinh doanh và làm ăn cho biết:
- Xem tài vận: không tốt.
- Xem khai trương: chưa nên khai trương.
- Xem buôn bán và giao dịch: cần xem lại phương pháp làm ăn mối có thể thu lợi nhuận.


Nguồn: Quang Tuệ

TRẠCH THIÊN QUẢI - quẻ 43

Quẻ Trạch Thiên Quải, đồ hình |||||: còn gọi là quẻ Quải (夬 guai4), là quẻ thứ 43 trong Kinh Dịch.
  • Nội quái là ☰ (||| 乾 qian2) Càn hay Trời (天).
  • Ngoại quái là ☱ (||: 兌 dui4) Đoài hay Đầm (澤).
Giải nghĩa quẻ TRẠCH THIÊN QUẢI: Quyết dã. Dứt khoát. Dứt hết, biên cương, ranh giới, thành phần, thành khoảnh, quyết định, quyết nghị, cổ phần, thôi, khai lề lối. Ích chi cực tắc quyết chi tượng: lợi đã cùng ắt thôi.


GIẢI NGHĨA BỨC TRANH CỔ TRẠCH THIÊN QUẢI


 Ý Nghĩa Bức Tranh 
1. Hai người cùng nhau đi du lịch, trước khi tới địa điểm, họ gặp nước, lửa, rắn và cọp, Ý nói trải qua nhiều nguy khốn.
2. Một người cầm kiếm chém rắn, ý nói can đảm.
3. Có chữ Văn trên lá cờ treo trên cột. Dưới chân cột có một đống tiền, ý nói sau khi trải qua gian khổ thì được danh vọng và tiền tài.

Hình Và Tượng
 Hình: Thần kiếm trảm giao (Kiếm thần chém thuồng luồng).
Tượng: Tiên tổn hậu ích (Trước hao tốn, sau được lợi).

 Thoán Từ 
Quải: Dương vu vương đình, phu hiệu. Hữu lệ, cáo tự ấp, bất lợi tức nhung, lợi hữu du vãng.
Quẻ Quải nghĩa là cương quyết, dứt khoát. Nêu tội trước triều đình. lấy lòng chí thành mà phát hiệu lệnh. Nhưng phải cẩn thận đề phòng nguy hiểm. Loan báo trước trong lãnh thổ của mình. Không nên dùng vũ lực thì mọi việc tiến triển mới tốt đẹp, đưa đến thành công. 

Diễn Giải 
Quyết đã là quyết liệt, hội quyết. Quẻ nầy Dương thịnh Âm suy, quân tử thịnh, tiểu nhân suy, rất tốt; năm quân tử khử một tiểu nhân.


Chiêm 
1. Đây là quẻ thuộc tháng Ba. Tốt trong hai mùa Hạ và Thu, xấu trong mùa Đông. 
2. Một hào Âm cai quản năm hào Dương, nên là quẻ Âm. Hào Âm ở trên cùng tượng cho một người xấu (tiểu nhân). Nhưng các hào Dương kia sẽ đẩy bật hào Âm đi. 
3. Bạn biết rằng người ta đã quá ngán ngẫm hàng chục vụ trộm cắp vặt trong khu vực này nên mọi người đều cùng muốn ra tay chấm dứt. Bạn bèn đến tòa báo nhờ họ đăng bài khuyên nhủ mọi người không nên tốn tiền tuyển mộ thêm cảnh sát hoặc gắn những hệ thống báo động tốn tiền, mà nên dùng tiền đó để thành lập những trung tâm giáo dục và khuyến hóa thiếu niên phạm pháp.


GIẢI NGHĨA QUẺ THEO ĐỒ HÌNH


Mô hình dự báo hay quẻ Trạch Thiên Quải

Khi dự báo, gặp mô hình dự báo hay quẻ này, cho biết, phải nêu vấn đề rõ ràng, công khai trước cơ quan có thẩm quyền, song không dùng vũ lực và nêu cao phẩm chất đạo đức của bản thân mình thì có lợi.

Quẻ trạch thiên quải.


Về quẻ này, sách xưa ghi: đời Nam Tống (1127 - 1279) có viên quan nhỏ Vương Tử Hiển dùng Dịch lý gieo được quẻ Trạch Thiên Quải, động hào 2. Người dự báo nói: "Chắc đêm nào đó ngài sẽ gặp việc sợ hãi, song sau đó sẽ thăng chức nắm binh quyền". Không lâu sau đó Vương Tử Hiển gặp bọn cướp, sau đó ít lâu lại được thăng chức Hồng Sư.

Theo quẻ Quải: Nội quái Càn dương kim, ngoại quái Đoài âm kim, đều kim đồng hành nói về binh khí, lại âm dương hòa hợp nên triệu thăng chức quân sự.
Động hào 2 của Quải, lời hào này nói ban đêm có giặc nên Vương tất gặp cướp.


Đồ hình hướng không gian Trái đất Trạch Thiên Quải:

Đồ hình hướng không gian trái đất quẻ Trạch Thiên Quải




a. Nếu chỉ tiết hóa từng sự việc, cho biết:

Xem thế vận: hết sức thận trọng trong hành động, chỉ một sai lầm nhỏ sẽ lâm vào tình thế nguy hiểm.
Xem hy vọng: khó thành.
Xem tài lộc: không có.
Xem sự nghiệp: khó thành.
Xem nhậm chức: không như ý, không hay.
Xem nghề nghiệp: chuyển nghề bình thường.
Xem tình yêu: chia tay vì đôi bên không hợp.
Xem hôn nhân: không như ý, có thành cũng bất hạnh.
Xem đợi người: không đến.
Xem đi xa: không nên.
Xem pháp lý: mình thất bại.
Xem sự việc: chậm, một thời gian sau mới giải quyết. Xem bệnh tật: bệnh nặng, nhất là bệnh lâu.
Xem thi cử: khó đạt kết quả.
Xem mất của: khó tìm.
Xem người ra đi: người nhà ra đi không biết ở đâu.


b. Nếu dự báo theo từng hào động cho biết:

Nếu hào 1 động: cho biết phải biết khả năng, sức lực của bản thân mình, thận trọng với công việc mới.
Cũng cho biết đang phiêu lưu vào những việc ngoài sức mình, song nhờ duyên nghiệp nên sẽ thành công. Việc làm hợp với người đi buôn sông biển, cầu bệnh thì an lành.
Nếu kinh doanh và làm ăn cho biết:
- Xem tài vận: không tốt, sẽ tổn thất về tiền bạc.
- Xem khai trương: chưa khai trương được.
- Xem buôn bán và giao dịch: khó khăn, có thể thua lỗ.

Nếu hào 2 động: cho biết đề phòng các bất trắc có thể
xảy ra để ứng phó kịp thời.
Cũng cho biết: hiện mọi việc đều trì trệ, nghi ngại, còn phân vân chưa quyết đường nào. Nếu xem bệnh, bệnh lâu lành. Nên cố thành tâm làm việc thiện để tránh tai họa.
Nếu kinh doanh và làm ăn cho biết:
- Xem tài vận: bình thường.
- Xem khai trương: chưa khai trương được.
- Xem buôn bán và giao dịch: khó khăn, cần cảnh giác.

Nếu hào 3 động: cho biết có dấu hiệu của sự mâu thuẫn
phản lại nhau. Nếu cương quyết xa người xấu, biết hợp lực với người tốt sẽ có lợi.
Cũng cho biết: việc có điều kiện tốt, cần tiến hành những việc tốt đẹp, lúc đầu khó khăn, vất vả, nhưng sau thành danh, an ổn.
Nếu kinh doanh và làm ăn cho biết:
- Xem tài vận: bình thường.
- Xem khai trương: chưa khai trương được.
- Xem buôn bán và giao dịch: khó khăn, bất lợi.

Nếu hào 4 động: cho biết có sự cô lập và bị vây quanh làm khó khăn, nếu tỉnh táo, bình tĩnh tự chủ ứng phó sẽ qua, sẽ tốt.
Cũng cho biết có thử thách và gian khổ, nếu nản lòng, nhụt chí việc không thành, sự nghiệp không có. Còn nhiều tương lai, hy vọng: khởi đầu thì khó khăn, sau thông thuận. Có những quan hệ ngẫu nhiên lại mang đến thời cơ rất tốt. Nếu kinh doanh và làm ăn cho biết:
- Xem tài vận: chưa tốt.
- Xem khai trương: chưa khai trương được.
- Xem buôn bán và giao dịch: khó thành công.

Nếu hào 5 động: cho biết đang cận kề, có khả năng quan hệ với những người xấu, việc xấu hãy tỉnh táo tránh xa ra thì không sai lầm mà còn tốt nữa.
Cũng cho biết: năng lực và công việc không đồng nhau, cần phải lập mối quan hệ với người khác mới làm nên sự việc.
Mùa xuân, tháng Hai là thời cơ tốt để tiến hành mọi việc.
Nếu kinh doanh và làm ăn cho biết:
- Xem tài vận: bình thường.
- Xem khai trương: chưa khai trương được.
- Xem buôn bán và giao dịch: cần nhanh bán hàng ra, nếu không sẽ tổn thất.

Nếu hào 6 động: cho biết tình cảnh rất khó khăn, không người giúp đỡ, phải tự mình vượt qua nếu có thể.
Cũng cho biết: còn do dự, ý quyết nhưng lại không hành động, nên tốn công sức, việc không thành. Tuy nhiên vẫn còn chút hy -vọng, song đòi hỏi phải tự thân hành động.
Nếu kinh doanh và làm ăn cho biết:
- Xem tài vận: không tốt, đề phòng phá sản.
- Xem khai trương: chưa khai trương được.
- Xem buôn bán và giao dịch: không thuận lợi.



Nguồn: Quang Tuệ



TRẠCH ĐỊA TỤY - quẻ 45

Quẻ Trạch Địa Tụy, đồ hình :::||: còn gọi là quẻ Tụy (萃 cui4), là quẻ thứ 45 của Kinh Dịch.
  • Nội quái là ☷ (::: 坤 kun1) Khôn hay Đất (地).
  • Ngoại quái là ☱ (||: 兌 dui4) Đoài hay Đầm (澤).
Giải nghĩa quẻ TRẠCH ĐỊA TỤY: Tụ dã. Trưng tập. Nhóm họp, biểu tình, dồn đống, quần tụ nhau lại, kéo đến, kéo thành bầy. Long vân tế hội chi tượng: tượng rồng mây giao hội.

GIẢI NGHĨA QUẺ TRẠCH ĐỊA TỤY 

QUA BỨC HỌA VẼ







Trong cách tổ chức đoàn kết, cần phải ưu tiên, lựa chọn những người hết lòng vì chính nghĩa và lợi ích của đất nước.

Bức vẽ có một viên quan cầm miếng ngọc đã được cắt giũa vuông vắn là đã bỏ khá nhiều công sức vào đó. Con chim phượng hoàng ngậm đến phong thư là điềm lành, an vui. Một người dẫn con đến nướng cá trên lửa để ăn là có nghĩa quây quần ấm cúng. Tụy có nghĩa là cây cỏ mọc um tùm, nhiều người tập trung vào một chỗ để tiến hành công việc giao dịch hay bàn luận, nên Tụy cũng là tụ hợp với việc thi cử nhận chức, thuyên chuyển nhân sự.

Theo cổ văn, chữ Tụy có tượng cây cỏ sum suê là đất ở trong đầm nước. Quẻ này có triệu ngư hóa vi long (cá hóa rồng). Màu sắc quẻ này là tím - trắng tạo cảm giác dịu mềm, hòa nhã, tình cảm. Sự tụ họp của Tụy với mục đích chính đáng, đúng thời điểm nên sẽ rất tự nhiên, hữu ích. Nhưng bất kỳ chỗ đông người nào cũng sinh ra bất trắc, vì lòng người chưa đồng thuận, nên vừa vui vẻ quây quần, phải vừa chuẩn bị những tình huống xấu phát sinh. Hơn nữa, cần nêu cao tinh thần đoàn kết của từng cá nhân để trở thành một tập thể lớn, vì đoàn kết là sức mạnh và cũng là nơi thể hiện rõ nhất nghệ thuật lãnh đạo, ứng xử. 

Những lãnh tụ lớn bao giờ cũng có những nhân tài kiệt xuất quần tụ xung quanh. Lưu Bị có Gia Cát Lượng, Quan Vũ, Trương Phi; Mao Trạch Đông có Chu Ân Lai, Chu Đức, Trần Nghị; Quang Trung Nguyễn Huệ có Trần Quang Diệu, Bùi Thị Xuân, Võ Văn Dũng, Ngô Thì Nhậm; Hồ Chí Minh có Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng, Trường Chinh, Nguyễn Văn Linh... Với quẻ Tụy, ta cần nắm được những hiểu biết sau:

1. Tinh thần đoàn kết vô cùng quan trọng trong cuộc sống và với sự nghiệp của cá nhân và tập thể. Trong cách tổ chức đoàn kết, cần phải ưu tiên, lựa chọn những người hết lòng vì chính nghĩa và lợi ích của đất nước. Chỉ có những người như vậy mới đủ sức mạnh tinh thần giúp lãnh đạo đi con đường chính trị đúng đắn. Thời Chiến Quốc, khi Sở Trang Vương lên ngôi đã tuyên bố: Tất cả những ai can gián đều xử tội chết. Rồi từ đó bỏ bê triều chính, đêm ngày tửu sắc, Ngũ Cử không dám khuyên can thẳng thắn, bèn dâng câu đố để thay thế lời nói, Sở Trang Vương xem bảo đã hiểu rồi nhưng lại tiếp tục sa đọa. Tô Tòng không chịu nổi bèn lên tiếng khuyên can. Sở Vương hỏi Tòng đã xem chiếu chỉ về can ngăn chưa? Tô trả lời tất nhiên biết là sẽ chết, nhưng chỉ cần nhà vua hồi tâm chuyển ý thì chết cũng vui lòng. Từ đó Sở Vương trọng dụng hai hiền thần Tô, Ngũ, cách xa bọn xu nịnh. Quả nhiên nước Sở thành một trong Ngũ bá thời đó. 

2. Mỗi một người trong tập thể tốt cần phải có phẩm chất trung thành, lòng dạ ngay thẳng, tinh thần dũng cảm, tư tưởng sáng suốt thì sẽ tạo nên sức mạnh to lớn. Đại tướng Lý Tích theo Lý Thế Dân khởi nghĩa, sau được bổ nhiệm làm Binh Bộ Thượng Thư. Ông là người thành thật, khiêm tốn, hoàn thành mọi việc được giao, cư xử khoan dung, nhân đạo. Trong các cuộc chiến ông luôn đi đầu, nhưng khi thắng lợi không bao giờ tranh công và không bao giờ chiếm thắng lợi phẩm hoặc phần thưởng làm của riêng. Ông là công thần trải qua ba triều đại nhà Đường là Cao Tổ - Thái Tông - Cao Tông. Khi bị bệnh nặng, ông từ chối nhận thuốc quý của vua ban vì biết tuổi quá 80, đã biết thế nào là đầy đủ. Sau khi ông mất, Cao Tông đã khóc nức nở và hạ chiếu ca ngợi Lý Tích như sau: Thờ phụng bề trên trung thành. Phụng dưỡng đồng thân có hiếu. Trải qua ba triều không hề phạm lỗi lần nào.

3. Muốn có được một đội ngũ gồm có người tài đức thì cần lựa chọn người giúp mình đúng yêu cầu, mặt khác cũng cần kêu gọi tiến cử người tài. Thời Xuân Thu, đại phu nước Tề là Kỳ Hoàng Dương cáo quan về quê vì tuổi cao. Tấn Công bảo ông tiến cử người thay thế, ông tiến cử Giải Hồ là người có thù oán với mình. Tấn Công hỏi thì ông trả lời rằng: Bệ hạ muốn thần tiến cử nhân tài có thể kinh bang trị quốc, chứ không hỏi kẻ thù của thần là ai, vì vậy Giải là bề tôi có thể dùng được. Nhưng sau đó Giải Hồ đột ngột lâm trọng bệnh qua đời, Tấn Công lại bảo Hoàng Dương tìm người khác thay thế, ông bèn tiến cử con trai mình là Kỳ Ngọ. Tấn Công ngạc nhiên hỏi lý do sao lại giới thiệu người trái ngược như vậy, ông đáp: Bậc quân tử vì việc công tiến cử người ngoài không tránh kẻ thù; tiến cử người trong nhà không tránh thân thuộc. Về sau quả nhiên Kỳ Ngọ làm việc rất tốt.

4. Cần phải biết chọn cho mỗi người con đường đi đúng đắn nhất. Bậc lãnh đạo phải đánh giá khả năng và tìm người phù hợp với công việc. Thời Nam Tống nguyên soái Trương Tuấn khi đi dạo ở vườn hoa gần nhà thấy một người lính già đang nằm ngủ bèn đánh thức dậy hỏi lý do lười biếng. Người lính trả lời không phải là lười, mà vì không có việc gì làm. Trương hỏi xem ông ta biết làm việc gì, thì người lính thản nhiên trả lời việc gì cũng biết làm một chút, thạo nhất là buôn bán. Trương hỏi vốn buôn bao nhiêu thì đủ? Người lính đáp rằng, không có vốn khó kiếm lời. Nếu cần bổ sung quân lương thì càng nhiều tiền càng tốt. Trương bèn sử dụng người lính trong việc trù tính và cung cấp quân lương, quân dụng. Người này sau lập được công lớn trong công tác hậu cần.

5. Trong mối quan hệ của một tập thể, tổ chức, chính quyền nào cũng thế, nếu để mối nghi ngờ xen vào suy nghĩ thì sẽ mang lại điềm báo rối loạn nội bộ, gây thiệt hại cho nhiều bên. Người lãnh đạo tự tin cần phải dám dùng người đã từng có sai lầm và đã dùng thì không nghi ngờ. Thời Xuân Thu, năm 628 TCN, Tần Mục Công nhận thấy Tấn Công bị bệnh nặng bèn phái ba đại tướng Minh Thị, Khốt Thật, Ất Bính thống lĩnh đại quân đánh Tấn. Nhưng người kế vị là Tấn Nhược Công đã sớm biết tin nên đã phục kích đánh bại quân Tần, bắt sống cả ba đại tướng. Để mượn kế sách mượn dao giết người, Tấn Công đã thả cả ba đại tướng về Tần vì nghĩ rằng Tần Mục Công nhất định sẽ giết chết họ vì đã bại trận. Nhưng Tần Công lại đích thân ra ngoài cổng thành đón ba vị tướng bại trận, đồng thời an ủi, động viên tinh thần và vẫn để họ thống lĩnh quân đội nước Tần. Ba năm sau, ba viên tướng kể trên lại thống lĩnh đại quân đi chinh phạt nước Tấn. Lần này quả nhiên họ đã đánh bại được quân Tấn, rửa hận cho nước Tần. Thắng lợi này là nhờ Tần Công biết câu: Kẻ sĩ có thể chịu được nhục thì sẽ thành công, nên đã tin dùng ba bại tướng.


6. Một số người không hòa hợp được với số đông, thậm chí còn bị mọi người xa lánh, không thích quan hệ. Nguyên nhân là những người này không biết cách xem xét điểm mạnh yếu của bản thân mình chỗ nào? Mỗi người cần phải điều chỉnh để phù hợp với hoàn cảnh, môi trường và xã hội. Thường người ta chỉ thích nói về mình rất hay, rất mạnh, mà không nói đến khuyết điểm, nhưng như thế lại là yếu điểm không thể khắc phục. Thời Chiến quốc, nhà triết học Dương Tử có lần sang nước Tống ở trọ trong một lữ quán. Ông chủ quán có hai cô vợ. Một cô rất xinh còn cô kia vô cùng xấu xí. Nhưng cô xấu xí thì được mọi người yêu quý, còn cô xinh đẹp thì bị khinh ghét. Dương Tử hỏi nguyên nhân, ông chủ quán trả lời rằng: Cô xinh thường cho là mình xinh, nhưng không biết mình xinh đẹp chỗ nào, nên cư xử tùy ý; cô xấu thường cho là mình xấu thì không cảm thấy cô ta xấu nữa, nên luôn cư xử thật đẹp. Dương Tử kết luận: Một người phẩm chất đạo đức tốt, mà không cho rằng mình tốt, thì sẽ làm cho người khác yêu mến. Vậy nên, biết điểm yếu của mình cũng là một thế mạnh.



GIẢI NGHĨA ĐỒ HÌNH TRẠCH ĐỊA TỤY


Mô hình dự báo hay quẻ Trạch Địa Tụy 



Khi dự báo, gặp mô hình dự báo hay quẻ này, cho biết: công việc làm theo nhóm đông, tập thể thì tốt. Việc nếu công khai thì lợi. Cần có chi phí lớn việc mới thành, cứ tiến lên mà hành động đạt kết quả lâu dài.


Đồ hình hướng không gian Trái đất Trạch Địa Tụy:
 
 
Đồ hình không gian trái đất Trạch Địa Tụy


a. Nếu chỉ tiết hóa từng sự việc, cho biết:

Xem thế vận: có thanh danh và tín nhiệm mà đang ở vận khí tốt đẹp.

Xem hy vọng: được thực hiện.

Xem tài lộc: có đủ

Xem sự nghiệp: thành đạt.

Xem nhậm chức: có chức vị như ý.

Xem nghề nghiệp: chuyển nghề sẽ có địa vị tốt hơn.

Xem tình yêu: ý hợp tâm đầu.

Xem hôn nhân: thành lương duyên.

Xem đợi người: đang đến.

Xem đi xa: chuyến đi thú vị.

Xem pháp lý: hòa giải là hơn sẽ có lợi cho mình.

Xem sự việc: tự chủ động mà giải quyết.

Xem bệnh tật: bệnh thuyên giảm.

Xem thi cử: đạt kết quả tốt.

Xem mất của: tìm thấy

Xem người ra đi: chuyến đi bình thường

 

b. Nếu dự báo theo từng thời điểm, cho biết:

Nếu hào 1 động: cho biết hãy tin và nghe một người nào đó có đạo đức, năng lực, thì họ sẽ giúp mình vượt khó khăn,

Cũng cho biết: công việc tuy khó khăn, nhưng rồi cũng đi đến kết quả. Cứ theo mục đích đã vạch ra mà thực hiện.

Nếu kinh doanh và làm ăn cho biết:

- Xem tài vận: bình thường, đề phòng mất cơ hội kiếm tiền.

- Xem khai trương: chưa nên khai trương.

- Xem buôn bán và giao dịch: thận trọng lựa chọn đối tượng giao dịch, lưu ý: vì cái lợi trước mắt có thể chịu tổn thất.

Nếu hào 2 động: Cho biết nếu chỉ độc lập tiến hành công việc sẽ không thành, cần có liên kết thành nhóm mới đi đến kết quả.

Cũng cho biết: việc thành bại là do mình tự quyết. Hãy thuận theo lẽ tự nhiên, nếu cưỡng cầu chỉ thêm nhọc lòng vô ích.

Về tình duyên nếu thấy không thuận thì nên tránh khỏi mắc vòng phiền lụy.

Nếu kinh doanh và làm ăn cho biết:

- Xem tài vận: khá vượng.

- Xem khai trương: khai trương đại cát.

- Xem buôn bán và giao dịch: có đối tác làm ăn thích hợp mới phát tài.

Nếu hào 3 động: cho biết tìm mọi cách mà quan hệ, hợp thành nhóm với ai đó mà hành động thì mới có kết quả.

Cũng cho biết: hãy tự bằng lòng với hiện tại, càng vẫy vùng, bôn ba càng không đi đến kết quả gì. Hãy để lòng thanh thản thì còn có hy vọng trong tương lai.

Nếu kinh doanh và làm ăn cho biết:

- Xem tài vận: bình thường.

- Xem khai trương: chưa nên khai trương.

- Xem buôn bán và giao dịch: có xuất hiện khó khăn, nên mở rộng phạm vi kinh doanh mối thu lợi nhuận.

Nếu hào 4 động: cho biết việc chỉ thành qua sự thuyết phục và có hành động vị tha.

Cũng cho biết cần có niên tin với ai đó mà phó thác công việc. Cần giữ mối quan hệ hợp tác lâu dài để thực hiện mục đích đề ra. Việc tuy chậm chạp nhưng chắc chắn.

Nếu kinh doanh và làm ăn cho biết:

- Xem tài vận: hiện đang tốt, có thể gặp phiền phức trong làm ăn.

- Xem khai trương: có thể khai trương.
- Xem buôn bán và giao dịch: thuận lợi, được cả danh và lợi.


Nếu hào 5 động: cho biết người theo mình vì mình có

địa vị cao. Không tự ái khi người chưa tin mình mà vân giữ nguyên tư cách.

Cũng cho biết: hoàn cảnh hiện tại không thuận lợi, việc làm có người hẹp hòi ngăn cản, song gặp người hiền đức giúp, tai họa đều quà.

Nếu kinh doanh và làm ăn cho biết:

- Xem tài vận: khá vượng.

- Xem khai trương: có thể khai trương.

- Xem buôn bán và giao dịch: thuận lợi.

Nếu hào 6 động: cho biết hiện tại thân cô thế cô, nếu an phận thì không sai lầm.

Cũng cho biết mọi việc ban đầu khó khăn, sau sẽ thuận lợi. Song phải đợi thời cơ mới hành động. Nếu kinh doanh, nên giữ vốn sẽ có lúc thu lợi lớn.

Nếu kinh doanh và làm ăn cho biết:

- Xem tài vận: chưa tốt.

- Xem khai trương: chưa nên khai trương.

- Xem buôn bán và giao dịch: không thuận lợi, nhưng sau sẽ vượt qua khó khăn.



Nguồn: Quang Tuệ